Cô gái hoa bồ công anh

Tác giả: Robert F. Young

Người dịch: rzy

Cô gái trên ngọn đồi gợi cho Mark hình ảnh của Edna St. Vincent Millay. Có lẽ vì mái tóc ngả màu hoa Bồ Công Anh của cô như nhảy múa trong gió khi cô đứng dưới ánh hoàng hôn, hay có lẽ là vì cái cách mà chiếc váy trắng cổ điển giản dị cuốn vòng quanh đôi chân thon dài. Phút chốc, anh chắc chắn rằng cô ấy, bằng cách nào đó, đã bước ra khỏi quá khứ và đặt chân đến hiện tại. Nhưng thật kì quặc, vì như mọi thứ xảy đến, đây không phải là quá khứ, mà chính là tương lai.

Anh dừng lại một chút sau cô gái, thở dốc, thấm mệt vì leo lên đồi. Cô ấy chưa nhìn thấy anh, anh tự hỏi làm thế nào để cô nhận ra sự hiện diện của mình mà không phải phá vỡ bầu không khí. Trong khi suy nghĩ, anh lấy tẩu thuốc ra, cho thuốc vào rồi châm lửa, chụm tay lại và rít một hơi dài cho đến khi tẩu thuốc cháy lên. Khi anh nhìn lại, cô gái đã quay về phía anh từ lúc nào, nhìn anh với ánh mắt tò mò.

Anh chậm rãi tiến lại, từ từ nhận ra bầu trời như đang tiến lại gần mình và cảm nhận cơn gió đang mơn man gương mặt. Mình phải đi dạo nhiều hơn, anh tự nhủ bản thân. Anh đã đi lang thang khắp khu rừng khi đến đây, và giờ khu rừng khuất sau lưng anh, dưới đồi, nhẹ nhàng thiêu mình trong những ngọn lửa nhợt nhạt đầu tiên của mùa thu, phía xa khu rừng là một cái hồ nhỏ, cùng với cabin và cầu câu cá. Từ khi vợ anh được đột ngột điều đi làm nghĩa vụ ở bồi thẩm đoàn, anh phải ở nơi đây một mình trong hai tuần, hai tuần mà anh đã cố gắng sắp xếp cho kì nghỉ mùa hè, để cuối cùng anh phải ở một mình, câu cá ở cầu tàu vào ban ngày và đọc sách cho đêm lạnh trôi qua trước lò sưởi trong phòng khách trần cao. Hai ngày tẻ nhạt như vậy trôi qua cũng đủ làm anh chán chường và anh quyết định bước ra ngoài, đi vào trong khu rừng mà không dự định sẽ đi đâu, và rồi bước đến ngọn đồi, leo lên và gặp được cô.

Mắt cô màu xanh, đôi mắt mà anh nhìn thấy khi bước lại gần, xanh như màu bầu trời đang ôm lấy bóng dáng mảnh khảnh của cô. Cô có gương mặt trái xoan, gương mặt tươi trẻ, mềm mại và ngọt ngào. Nó khơi gợi một cảm giác thật lạ nhưng cũng thật quen, cồn cào thôi thúc anh đưa những ngón tay chạm lấy gò má đang mơn man trong cơn gió, và dù cho tay anh chưa nhấc lên, anh đã cảm thấy những ngón tay đang ngứa ran.

Tại sao chứ, mình đã bốn mươi bốn, anh tự hỏi mình, còn cô ấy cùng lắm là ngoài hai mươi, điều gì đã xảy đến với mình chứ? “Cô đang ngắm cảnh à?” - Anh hỏi lớn. “Ồ, vâng”, Cô quay lại, hăng hái đưa cánh tay khẽ vuốt theo một hình bán nguyệt. “Thật là lộng lẫy đúng không!”

Anh đưa mắt nhìn theo cô, “Vâng, đúng vậy” - anh nói. Phía dưới họ, cánh rừng nối tiếp, trải dài xuống vùng trũng trong gam màu ấm áp tháng Chín, ôm trọn lấy một ngôi làng nhỏ cách đó vài dặm, như cúi đầu trước tiền đồn ở phía biên giới ngoại ô. Nhìn từ xa, sương mù như làm mờ đi hình dạng răng cưa của thành phố Cove, khoác lên nó bóng dáng của một toà lâu đài trung cổ đang nằm ườn ra, như không phải là thật, mà là một giấc mơ. “Cô cũng đến từ thành phố à?” anh hỏi.

“Sự thật là”, cô mỉm cười, “Tôi đến từ thành phố Cove của hai trăm bốn mươi năm sau.” Nụ cười như muốn nói rằng cô không mong đợi anh phải tin mình, nhưng sẽ thật tốt nếu anh giả vờ như tin cô. Anh mỉm cười lại, “Thế thì, chắc phải là năm hai nghìn hai trăm lẻ một sau công nguyên, đúng không? Tôi có thể tưởng tượng đến lúc đó thì nơi này cũng đã phát triển như thế nào.” - anh nói.

“Ồ đúng vậy” - cô nói. “Hiện giờ nó là một phần của khu đại đô thị và mở rộng ra khắp hướng”. Cô chỉ vào bìa rừng dưới chân họ, “Đường Hai Nghìn Bốn Mươi chạy dọc đến cánh đồng mía phía bên kia” - cô tiếp tục, “và anh có thấy chỗ những cây bồ kết đằng kia?”

“Vâng” - anh nói, “tôi thấy chúng rồi”.

“Chỗ đó chính là trung tâm mua sắm. Siêu thị ở đấy to đến nỗi mất cả nửa ngày để đi hết, và anh có thể mua gần như mọi thứ từ thuốc cảm cho đến xe ô tô bay. Và gần siêu thị, chỗ những cây sồi đằng kia, là cửa hàng váy to đùng tràn ngập những mẫu trang sức mới nhất. Tôi đã mua chiếc váy này, chiếc váy mà tôi mặc đến đây sáng nay. Nó đẹp lắm đúng không?”

Nếu là vậy, thì chỉ là do cô ấy đẹp mà thôi. Tuy vậy, anh nhìn vào cô nhã nhặn. Nó được cắt từ một loại vật liệu không quen thuộc với anh, dường như là một vật liệu kết hợp giữa kẹo bông gòn, bọt biển và tuyết. Chẳng biết chừng nó là một loại chất liệu kết hợp bằng những sợi mầu nhiệm ở nhà máy, cũng không nằm ngoài một loại vật liệu trong truyện cổ tích của các cô gái trẻ. “Tôi đoán là cô đến đây bằng cỗ máy thời gian” - anh nói.

“Vâng, bố tôi đã phát minh ra một cái.”

Anh nhìn cô gần hơn, anh chưa bao giờ nhìn thấy một nét mặt ngây thơ đến vậy. “Vậy cô có đến đây thường xuyên không?”

“Ồ vâng, đây là tọa độ thời không ưa thích của tôi. Tôi thỉnh thoảng đứng đây hàng giờ liền, chỉ nhìn, nhìn và nhìn. Ngày hôm trước tôi thấy một con thỏ, hôm qua là một con nai, và hôm nay, là ông.”

“Nhưng làm sao tồn tại ngày hôm qua”, Mark hỏi, “khi cô luôn trở về một điểm thời gian?”

“Ồ tôi hiểu ý ông”, cô nói. “Đấy là vì cỗ máy thời gian chịu ảnh hưởng bởi dòng chảy thời gian, như mọi thứ khác. Vì thế ông phải đặt lại trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ để duy trì tọa độ như trước. Tôi chẳng bao giờ làm vậy vì tôi muốn mỗi ngày tôi quay lại đều là một ngày khác nhau.”

“Bố cô có khi nào đi cùng cô không?”

Trên trời, một đàn ngỗng trời xếp thành hình chữ V, chậm rãi lướt qua, và cô nhìn chúng hồi lâu trước khi cất tiếng. “Bố tôi giờ đã nằm liệt một chỗ” - cuối cùng cô cũng trả lời. “Ông ấy sẽ rất muốn đến đây nếu ông ấy có thể, nhưng tôi vẫn hay kể cho ông ấy nghe tất cả những gì tôi nhìn thấy” - cô nhanh chóng thêm vào. “Và như vậy cũng đâu khác gì ông ấy thực sự đến đây. Ông không thấy như vậy sao?”

Cô nhìn vào anh háo hức như mong chờ điều gì đó khiến anh mủi lòng. “Tôi chắc là như vậy”, anh nói. “Thật là tuyệt khi sở hữu một cỗ máy thời gian.”

Cô nghiêm túc gật đầu, “Với những ai thích đứng trên những đồng cỏ dễ chịu, thì nó quả là vật báu, vì thế kỉ hai mươi ba không còn nhiều đồng cỏ như vậy nữa.”

Anh mỉm cười. “Thế kỉ hai mươi cũng chẳng còn nhiều đâu, tôi đoán chỗ chúng ta đang đứng cũng là một đồng cỏ đẹp hiếm có. Chắc tôi sẽ phải đến đây thường xuyên hơn.” “Ông sống gần đây chứ?” - Cô hỏi.

“Tôi ở một cabin cách đây khoảng ba dặm, lẽ ra tôi đang trong kì nghỉ tuy nhiên giờ thì không phải vậy nữa. Vợ tôi đã được điều đi làm nghĩa vụ ở bồi thẩm đoàn nên không thể đi cùng. Và vì không hoãn lại được, tôi đành phải trở thành một Thoreau bất đắc dĩ. Tên tôi là Mark Randolph.”

“Còn tôi là Julie.” - Cô nói, “Julie Danvers.”

Cái tên thật hợp với cô, như chiếc váy trắng vừa vặn cô đang mặc, như bầu trời xanh bao quanh cô cùng ngọn đồi và cơn gió tháng Chín. Có thể cô sống ở một ngôi làng nhỏ trong rừng, nhưng điều đó thực sự đâu còn quan trọng. Nếu cô vờ rằng mình đến từ tương lai, điều đó cũng ổn với anh. Điều thực sự quan trọng là, những cảm xúc trào dâng trong anh khi nhìn thấy cô lần đầu, và sự dịu dàng như vây lấy anh khi anh đưa mắt nhìn vào gương mặt đáng yêu. “Cô làm công việc gì?” - anh hỏi, “Hay cô vẫn còn đi học?”

“Tôi đang học để trở thành thư kí” - cô nói. Rồi cô bước nửa bước, xoay một vòng duyên dáng trước khi chắp hai tay ra phía trước. “Tôi rất muốn được trở thành một thư kí” - cô tiếp tục, “sẽ thật tuyệt khi được làm việc trong một văn phòng quan trọng nào đó và ghi lại những điều quan trọng từ mọi người. Ngài có muốn tôi làm thư kí của ngài không, thưa ngài Randolph?”

“Tôi muốn chứ” - anh nói. “Vợ tôi từng là thư kí của tôi - trước khi chiến tranh xảy ra. Và rồi chúng tôi quen nhau như vậy”. Anh tự hỏi tại sao mình lại nói ra điều đó vào lúc này.

“Cô ấy có phải là một thư kí giỏi?”

“Cô ấy tuyệt vời nhất, thật tiếc vì cô ấy không còn là thư kí của tôi nữa, một mặt tôi đánh mất cô ấy, mặt khác tôi lại có cô ấy. Nên thật khó để nói là đánh mất cô ấy.”

“Ồ, tôi không nghĩ vậy đâu. Ồ, giờ tôi phải quay về rồi thưa ông Randolph. Bố tôi đang rất nóng lòng chờ tôi kể những gì tôi đã nhìn thấy, và tôi còn phải sửa soạn bữa tối cho ông ấy”.

“Mai cô lại đến chứ?”

“Có thể lắm. Vì tôi thường đến đây mỗi ngày mà. Giờ thì tạm biệt, ngài Randolph” “Tạm biệt cô, Julie” - anh nói.

Anh nhìn cô nhẹ nhàng chạy xuống dưới chân đồi và khất dạng sau cánh đồng mía, nơi mà hai trăm năm sau, sẽ là đường Hai Nghìn Bốn Mươi. Anh mỉm cười, thật là một đứa trẻ duyên dáng, anh nghĩ. Hẳn phải rất thú vị khi có trong mình một nỗi tò mò không kìm nén được, một niềm háo hức nồng nhiệt về cuộc sống. Anh hài lòng với hai phẩm chất đó ở cô vì chính bản thân anh đã chối từ nó. Ở tuổi đôi mươi anh là một thanh niên nghiêm túc học ở trường luật, anh khởi nghiệp lần đầu năm hai mươi bốn tuổi, và dù chỉ là một dự án nhỏ, nhưng nó gần như chiếm hết thời gian của anh – vâng, cũng không hoàn toàn vậy. Khi anh cưới Anne, đã có một khoảng thời gian bề bộn ngắn ngủi, làm cho cuộc sống bị ngắt quãng. Và rồi, khi chiến tranh xảy đến, lại thêm một khoảng thời gian chuyển tiếp còn lâu hơn trước – khi cuộc sống mưu sinh dường như xa vời và đôi khi là những khát khao nhỏ nhoi. Khi trở về với cuộc sống bình thường, cuộc sống mạch lạch trở lại hạnh phúc hơn mong đợi; vì giờ đây anh đã có một đứa con trai và người vợ luôn bên cạnh anh, anh thì lúc nào anh cũng bận rộn ngoại trừ bốn tuần lễ một năm anh tự thưởng cho mình. Hai tuần lễ đi nghỉ dưỡng cùng Anne và Jeff ở một khu nghỉ dưỡng do họ chọn, hai tuần lễ dành riêng cho Anne, sau khi Jeff về lại trường đại học; trong chiếc cabin của họ bên bờ hồ. Nhưng năm nay, có lẽ anh phải có hai tuần cô đơn - mà thực ra, cũng không thực sự cô đơn.

Tẩu thuốc đã tắt ngấm từ khi nào mà anh không hề để ý. Anh châm thêm một điếu nữa, phả một làn khói dài vào gió, rồi anh bước xuống ngọn đồi, theo con đường cũ băng qua khu rừng hướng về phía chiếc cabin. Thu phân đã đến và ngày thì ngắn đi thấy rõ, ngày hôm nay đã sắp tàn, hoàng hôn đang buông xuống và cái ẩm ướt buổi chiều tà như thấm đẫm vào bầu không khí mơ hồ.

Anh bước chậm, lúc anh tới hồ cũng là lúc mặt trời khuất dạng. Hồ tuy nhỏ nhưng sâu, và những cành cây thì rũ lá xuống mặt hồ. Chiếc cabin nằm cách xa bãi biển, cạnh những cây thông và con đường ngoằn ngoèo dẫn ra chiếc cầu tàu. Cạnh đó là một bãi sỏi dẫn đến con đường đất hướng ra xa lộ. Từ cửa sau có thể nhìn thấy trạm xe lửa, nơi sẵn sàng tiễn anh về cuộc sống thường nhật trong chớp mắt.

Anh sửa soạn và ăn bữa tối đạm bạc trong nhà bếp, rồi ra phòng khách ngồi đọc sách. Chiếc máy phát trên chái vẫn phát ra tiếng ồn đều đặn, nhưng màn đêm vẫn thản nhiên bởi những âm thanh ấy không còn xa lạ với người quen sống chốn phồn hoa. Anh chọn một tuyển tập thơ Mỹ từ kệ sách được đặt ngay ngắn bên cạnh lò sưởi, ngồi xuống và lật đến “Hoàng hôn trên đồi”.

Anh đi đọc lại bài thơ tuyệt phẩm ba lần, và mỗi lần anh đọc, hình ảnh người con gái đứng dưới ánh hoàng hôn, mái tóc bồng bềnh trong gió, chiếc váy trắng như tuyết cuốn quanh đôi chân dài đáng yêu hiện ra trước mắt anh. Một cái gì đó nghẹn lại trong họng anh, mà anh không thể nuốt trôi.

Anh trả sách vào lại kệ, đi ra ngoài và đứng ở mái hiên cũ kỹ, anh lấy tẩu thuốc ra rồi cho thuốc vào và châm lửa. Anh cố gắng suy nghĩ về Anne: gương mặt cô ấy hiện lên rõ ràng, chiếc cằm đáng yêu, đôi mắt ấm áp nhưng u buồn chất chứa một nỗi sợ, mà anh không tài nào hiểu được, hai má mềm mại, nụ cười dịu dàng. Và mỗi nét ở cô ấy thôi thúc trí nhớ anh về hình ảnh mái tóc lung linh màu nâu nhạt, hình dáng mảnh khảnh cùng nét kiềm diễm mỏng manh nơi cô. Mọi lần nghĩ về cô ấy, anh đều lấy làm ngạc nhiên, ngạc nhiên vì nét thanh xuân gần như vĩnh cửu, ngạc nhiên vì sao cô ấy, sau bao nhiêu năm vẫn giữ nguyên sự đáng yêu như khi, rất lâu về trước, anh nhìn cô ấy, giật mình, còn cô ấy đứng trước bàn làm việc, rụt rè nhìn anh. Thật khó tưởng tượng hai mươi năm về sau có thể anh sẽ nhìn một cô gái, có thể đủ trẻ để làm con gái anh. Có lẽ anh không tưởng tượng vậy đâu, anh chỉ lung lay một chút thôi. Phút chốc, những cân bằng cảm xúc trong anh biết mất, và anh cảm thấy bản thân chao đảo. Còn bây giờ thì cơ thể anh đã trở về trên đôi chân, và trái đất thì đã trở về với quỹ đạo của nó.

Anh tắt thuốc, gõ cho sạch tẩu và trở lại vào trong, vào phòng ngủ anh thay quần áo rồi dúi người vào chăn. Cơn buồn ngủ lẽ ra đã phải ùa đến rồi, nhưng không; và khi nó đến, đó là những mảnh ghép xen kẽ nhau của một giấc mơ đầy ma mị.

“Ngày hôm trước em thấy một con thỏ” - cô nói, “ngày hôm qua là một con nai, và hôm nay là anh.”

Vào buổi chiều thứ hai, cô mặc một chiếc váy màu lam, cùng với một chiếc ruy băng màu lam trên mái tóc màu hoa bồ công anh. Sau khi trèo lên đồi, anh đứng một lát, lặng im, chờ cho cái nghẹn nơi cổ họng trôi đi, rồi anh tiến tới và đứng bên cạnh cô trong cơn gió. Nhưng chỉ trong chốc lát, những đường nét nhẹ nhàng nơi cổ và cằm cô mang sự ngột ngạt trở lại, và khi cô quay lại nói: “Tôi không nghĩ là anh sẽ đến đây hôm nay”, anh phải đợi một hồi lâu trước khi có thể nói nên lời.

“Nhưng tôi đã đến” - anh cất tiếng, “và cô cũng vậy.”

“Vâng” - cô nói, “tôi vui lắm.”

Gần đó, một phiến đá lộ ra trông như một băng ghế, họ ngồi xuống và đưa mắt nhìn ra xa. Anh lấy tẩu thuốc ra, châm lửa rồi rít một hơi và phả khói ra xa vào cơn gió. “Bố tôi cũng hút thuốc bằng tẩu, giống như ông” - cô nói; “và khi ông ấy châm lửa, cũng chụm tay lại như ông, mặc dù không có gió. Ông và ông ấy có thật nhiều điểm giống nhau.”

“Hãy kể cho tôi nghe về bố cô, ” - anh nói. “Và cả bản thân cô nữa.”

Và cô bắt đầu kể, rằng cô ấy hai mươi mốt tuổi, bố cô là một nhà vật lý học thuộc chính phủ nay đã nghỉ hưu, họ sống trong một căn hộ nhỏ nằm trên đường Hai Nghìn Bốn Mươi. Cô bắt đầu phụ giúp ông việc nhà từ khi mẹ cô qua đời bốn năm về trước. Rồi sau đó, anh kể cho cô nghe về bản thân anh, về Anne và về Jeff. Về việc anh có ý định sẽ để Jeff làm cộng sự với anh một ngày nào đó, về chứng sợ máy ảnh của Anne và việc cô ấy đã từ chối chụp ảnh từ lúc đám cưới của họ và tiếp tục như vậy ngay cả khi vào thời gian quý báu ba người họ đi dã ngoại vào mùa hè năm ngoái.

Khi anh kể xong, cô nói: “Ông có một gia đình thật tuyệt vời. Những năm sáu mươi của thế kỉ hai mươi là những năm thật tuyệt để sống.”

“Cô được quyền sử dụng cỗ máy thời gian mà, cô có thể đến đây vào bất kì tọa độ thời gian nào cô muốn.”

“Không dễ như vậy đâu, bên cạnh thực tế là tôi không muốn bỏ bố tôi lại một mình, thì tôi luôn bị sự nhòm ngó của cảnh sát thời gian. Ông biết đấy, du hành thời gian bị giới hạn bởi các thành viên của các tổ chức thám hiểm lịch sử được chính phủ tài trợ, và nó vượt xa tầm với của dân thường.”

“Nhưng không phải là mọi thứ đều đang ổn với cô sao?”

“Bởi vì bố tôi tự sáng chế ra một cỗ máy của riêng ông ấy. Và cảnh sát thời gian thì không biết về điều đó.”

“Nhưng làm như vậy vẫn là phạm pháp.”

Cô gật đầu. “Nhưng trong quan điểm của họ, chỉ có khái niệm về thời gian của họ là đúng, trong khi bố tôi lại có những khái niệm riêng.”

Thật dễ chịu khi nghe cô nói chuyện ngay cả khi anh không biết cô đang nói về vấn đề gì. Anh muốn được nói chuyện với cô nhiều hơn, dù cô đang đi xa vấn đề. “Kể cho tôi nghe đi!” - anh nói.

“Đầu tiên tôi sẽ nói cho ông nghe về quan điểm chính thống, những người viết ra nó cho rằng không ai đến từ tương lai được tác động trực tiếp lên những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, vì chính sự hiện diện của anh ta sẽ hình thành nên nghịch lý, và các sự kiện trong tương lai đồng thời phải thay đổi để cân bằng các nghịch lý ấy. Trung tâm Du Hành Thời Gian được sinh ra để bảo đảm rằng những người có thẩm quyền mới được sử dụng máy thời gian của họ, thêm nữa, họ duy trì một lực lượng cảnh sát để phân biệt với những người có khả năng là người nhảy thời gian: những người khao khát một cuộc sống tốt hơn và những người ngụy trang thành những nhà nghiên cứu lịch sử để nhảy vĩnh viễn tới một kỉ nguyên khác.”

“… Nhưng bố tôi lại có quan điểm khác, theo ông thì cuốn sách thời gian đã được ghi từ trước. Đứng từ tầm nhìn vũ trụ vĩ mô, bố tôi nói những thứ sắp xảy ra thì đã hoàn toàn xảy ra rồi. Cho nên, khi một người từ tương lai tác động lên một sự kiện ở quá khứ, anh ta trở thành một phần của sự kiện đó, thế nên lý do đơn giản là ngay từ lúc đầu anh ấy đã tham gia vào. Và vì thế nghịch lý không thể xảy ra.”

Mark nâng tẩu thuốc lên, rít một hơi dài. “Bố cô thật là một con người phi thường” - anh nói. “Ồ, ông ấy đúng là như vậy đấy”. Đôi má hồng hào đầy hứng khởi, đôi mắt màu xanh dương sáng long lanh, cô tiếp tục, “Ông không thể tin những gì ông ấy đã đọc đâu, ông Randolph. Tại sao ư, căn hộ của chúng tôi ngập trong chúng mất. Nào là Hegel, nào là Kant, nào Hume Einstein, rồi Newton và Weizsacker. Bản thân tôi, tôi cũng đọc một vài trong số chúng nữa.”

“Tôi cũng sưu tầm nhiều sách lắm. Thực tế là, cũng như ông ấy vậy.”

Cô khéo léo đưa mắt nhìn anh đầy vẻ ngưỡng mộ. “Thật tuyệt làm sao, ông Randolpth. Tôi cá là chúng ta cũng có nhiều sở thích chung đấy.”

Cuộc nói chuyện lúc sau càng khẳng định thêm điều đó, mặc dù mỹ học siêu nghiệm, học thuyết Berkeley và thuyết tương đối dường như không phải là chủ đề phù hợp cho một cô gái trẻ và một người đàn ông trung niên nói chuyện, trên một ngọn đồi tháng Chín, anh chợt nghĩ vậy. Nhưng mặc cho người đàn ông đã bốn mươi bốn tuổi và cô gái chỉ mới hai mươi mốt, nhưng may thay, vẫn còn đó những điều bù trừ. Cuộc nói chuyện của họ về mỹ học siêu nghiệm ngoài việc khám phá ra kết luận về tiên nghiệm và hậu nghiệm, nó còn khám phá ra vũ trụ đầy sao trong mắt cô. Sự phân tích của họ về học thuyết Berkeley còn làm được nhiều hơn là chỉ ra những điểm yếu trong quan điểm của vị giám mục giỏi giang, nó còn chỉ ra màu hồng trên đôi gò má cô. Và sự xem xét của họ về thuyết tương đối đâu chỉ kết luận công thức “E bằng với m nhân c bình phương”, nó còn chỉ ra rằng, những hiểu biết không còn là trở ngại mà giờ đây nó chỉ là những thứ tô thêm vẻ duyên dáng nữ tính nơi cô.

Những cảm xúc nơi cuộc trò chuyện còn nán lại nơi anh lâu hơn nó được phép, và nó còn đọng lại tới khi anh chuẩn bị đi ngủ. Lần này anh không ép mình nghĩ về Anne nữa, vì anh biết nó không ích gì. Thay vào đó anh nằm im trong bóng tối, giao ý thức của mình cho những ý nghĩ mông lung hiện lên trong đầu, và tất cả chỉ còn lại hình ảnh cô gái với mái tóc bồ công anh, đứng trên ngọn đồi tháng Chín.

“Ngày hôm trước em thấy một con thỏ, hôm qua là một con nai, và hôm nay là anh.”

Buổi sáng hôm sau anh anh lái xe qua ngôi làng và kiểm tra hòm thư xem có thư nào gửi cho mình không. Chẳng có gì, anh không hề ngạc nhiên. Jeff ghét việc viết thư cũng như anh vậy, còn Anne, giờ này chắc không liên lạc được, vì công việc trước kia của anh đòi hỏi thư kí thường không được làm phiền đến anh trừ những tình huống khẩn thiết nhất.

Anh tự hỏi có nên hỏi ông cụ quản lý bưu điện da nhăn nheo, rằng có ngôi nhà nào của gia đình Danvers sống gần đây không. Rồi anh quyết định không hỏi nữa. Làm như vậy sẽ phá hỏng sợi dây tin tưởng mà anh và Julie đã dành cho nhau, và mặc dầu anh không hoàn toàn tin vào cái sự tin tưởng ấy, anh không tài nào chứng minh được rằng nó sai.

Chiều hôm ấy cô mặc một chiếc váy màu vàng, ngả màu như màu tóc cô. Và một lần nữa cổ họng anh nghẹn lại khi nhìn thấy cô, và một lần nữa anh không thể cất lời. Nhưng khi những khoảnh khắc đó trôi đi và những từ ngữ hiện lên trong đầu, mọi thứ đều ổn trở lại và những suy nghĩ của họ cùng nhau tuôn chảy như hai dòng suối vui vẻ, róc rách hòa vào nhau trong ánh chiều. Lần này khi họ tạm biệt, chính cô là người cất lời hỏi “Ngày mai anh lại đến chứ?”; và cũng chỉ bởi vì cô cướp những lời ấy từ anh mà chúng còn ngân vang mãi trong tai anh, trên đường băng qua cánh rừng trở về cabin; ru anh vào giấc ngủ sau một buổi chiều trầm tư cùng tẩu thuốc ngoài mái hiên.

Buổi chiều hôm sau, khi anh bước chân lên đồi, ngọn đồi trống vắng. Đầu tiên nỗi thất vọng bao trùm lấy anh, rồi anh nghĩ “Chắc là cô ấy đến trễ thôi. Chắc cô ấy sẽ sớm xuất hiện.” Anh ngồi xuống tảng đá và chờ đợi cô. Nhưng cô không tới. Vài phút trôi qua, rồi vài giờ. Lúc này bóng tà đã trườn lên những cánh rừng và bắt đầu leo lên một phần ngọn đồi. Không khí trở nên lạnh hơn. Cuối cùng anh đành từ bỏ và khổ sở bước chân qua cánh rừng trở về cabin.

Chiều hôm sau cô cũng không tới, và cả hôm sau nữa cũng không. Anh không thể ăn, cũng không thể ngủ, câu cá giờ trở nên tẻ nhạt với anh. Anh thậm chí không thể đọc. Rồi sau đó, anh bắt đầu ghét bỏ bản thân mình, ghét bản thân vì hành xử như một cậu học trò đang si tình, vì việc anh trở thành một trung niên ngoài tứ tuần ngu ngốc say đắm khuôn mặt xinh đẹp và đôi chân thon dài nơi cô. Cho đến vài ngày trước anh chưa từng đắm say một người phụ nữ nào khác ngoài vợ anh, nhưng rồi tại nơi đây chỉ chưa đến một tuần, anh không còn chỉ nhìn ngắm cô, mà đã đem lòng yêu cô say đắm.

Niềm tin như đã chết khi anh leo lên ngọn đồi vào ngày thứ tư, rồi bỗng chốc sống lại khi anh nhìn thấy cô đứng trong nắng. Lần này cô mặc một bộ váy màu đen, và anh lẽ ra phải đoán được lý do vì sao cô vắng mặt trong vài ngày; nhưng không, cho đến khi anh bước lại gần và thấy những giọt nước mắt lăn dài trên má và đôi môi đang run rẩy. “Julie, chuyện gì đã xảy ra vậy?” Cô ôm ghì lấy anh, đôi bờ vai cô run lên bần bật, cô áp mặt vào áo anh. “Bố em mất rồi” - cô nói. Và rồi anh chợt nhận ra đây là những giọt nước mắt đầu tiên của cô, nhận ra rằng cô đã thức cả đêm ngồi thẫn thờ không rơi một giọt nước mắt trong đám tang, và chưa từng vỡ òa cho tới giờ phút này.

Anh nhẹ nhành đưa cánh tay ôm lấy cô. Anh chưa từng hôn cô, và giờ cũng không. Môi anh nhẹ nhàng chạm lên trán cô, và chạm khẽ vào tóc cô, chỉ có vậy. “Xin lỗi em, Julie. Tôi biết ông ấy thật quan trọng đối với em.”

“Bố em đã biết trước về cái chết của bản thân” - cô nói. “Ông đã biết từ lúc làm thí nghiệm đồng vị Stronti chín mươi ở phòng thí nghiệm. Nhưng ông ấy không nói cho ai biết, ngay cả em cũng không. Em không còn muốn sống nữa. Không còn ông ấy thì chẳng còn ý nghĩa gì nữa, chẳng còn gì nữa, chẳng còn gì, chẳng còn gì!”

Anh ôm chặt cô. “Em sẽ tìm thấy một điều gì đó mà Julie. Một ai đó. Em vẫn còn trẻ, em chỉ là một đứa trẻ…”

Đầu cô chợt lùi lại và đưa đôi mắt đã khô nước mắt, cương nghị nhìn anh “Tôi không phải là một đứa trẻ, sao anh dám gọi tôi là một đứa trẻ.”

Anh giật mình, buông tay khỏi cô và bước lùi lại, anh chưa từng nhìn thấy cô giận. “Tôi không …” anh ngập ngừng.

Cơn giận của cô chợt biến mất như cách mà nó đột ngột xuất hiện. “Em biết anh không có ý làm tổn thương em, ngài Randolph. Nhưng em không phải là một đứa trẻ, thực sự không phải. Thế nên anh hãy hứa rằng sẽ không gọi em như vậy thêm một lần nào nữa.”

“Được rồi”. Anh nói, “tôi hứa!”

“Và giờ thì em phải đi rồi,” cô nói, “Em còn cả nghìn việc phải làm.”

“Vậy, mai em sẽ đến chứ?”

Cô nhìn anh một hồi lâu. Những hạt sương vương lại trên chồi non sau cơn mưa rào mùa hạ nơi đôi mắt xanh biếc của cô làm nó thêm long lanh. “Cỗ máy thời gian sắp bị hỏng” - cô nói, “và nó có vài thiết bị cần phải thay thế - nhưng em không biết làm thế nào để thay thế chúng. Cỗ máy của bố và em - của em chỉ đủ cho một lần đi nữa, nhưng em cũng không chắc.”

“Nhưng em sẽ tìm cách đến đây, đúng không?”

“Vâng, em sẽ cố. Và ngài Randolph?”

“Tôi nghe đây, Julie”

“Nếu em không làm được, xin anh hãy nhớ lấy điều này. Em yêu anh!”

Rồi cô ấy bước đi, nhẹ nhàng chạy xuống đồi và biến mất vào cánh đồng mía. Tay anh khổ sở bật diêm châm lửa cho tẩu thuốc, đến nỗi diêm đã cháy vào các ngón tay. Rồi sau đó anh như người mất trí, chẳng còn nhớ bản thân mình đi về cabin chuẩn hay bị bữa tối hay đi ngủ. Nhưng chắc chắn anh đã làm những việc đó rồi, vì khi anh tỉnh dậy trong phòng, bước vào nhà bếp và nhìn thấy một chiếc đĩa nằm trong chậu rửa bát.

Anh rửa đĩa và pha cà phê. Anh dành cả buối sáng câu cá ngoài cầu tàu, cố gắng giữ cho tâm trí trống rỗng. Anh sắp phải chấp nhận thực tế. Nhưng bây giờ anh cũng cảm thấy ấm áp khi biết rằng cô ấy yêu anh, rằng có thể vài giờ nữa anh sẽ lại được nhìn thấy cô. Một cỗ máy thời gian bị hỏng chắc có lẽ không khó để đưa cô từ ngôi làng, đến ngọn đồi.

Anh đến sớm hơn thường lệ, ngồi lên phiến đá mong chờ cô sẽ xuất hiện từ cánh rừng và bước lên đồi. Tim anh đập rộn ràng và anh cảm nhận được rằng những ngón tay mình đang run rẩy. Ngày hôm trước em thấy một con thỏ, hôm qua là một con nai, và hôm nay là anh.

Anh cứ đợi và đợi, nhưng cô không đến. Ngày hôm sau cũng không. Khi ánh tà bắt đầu trải dài và không khí trở nên lạnh buốt, anh bước xuống bên kia đồi và đi vào cánh đồng mía. Rồi chợt anh nhìn thấy một con đường và anh men theo nó đi vào khu rừng đến khi tới được ngôi làng. Anh dừng lại trước một bưu điện nhỏ và kiểm tra xem có thư nào gửi cho anh không. Sau khi ông quản lý bưu điện già bảo rằng không, anh ngập ngừng một lát. “Có gia đình nào tên Danvers sống gần đây không?”, anh ấp úng mở lời.

Ông cụ lắc đầu. “Tôi chưa từng nghe bao giờ.”

“Vậy gần đây có đám tang nào trong thị trấn không?”

“Cả năm nay không có lấy một cái.”

Và mặc dù sau đó, anh ghé thăm ngọn đồi mỗi ngày cho đến khi kì nghỉ kết thúc. Anh biết một điều từ sâu thẳm tim mình rằng cô ấy sẽ không quay lại, rằng cô đã biến mất khỏi anh hoàn toàn như cô chưa từng tồn tại. Những buổi chiều anh ghé qua ngôi làng, hi vọng mong manh rằng ông cụ quản lý bưu điện lẩm cẩm có thể nhầm lẫn gì đó, nhưng anh vẫn không thấy bóng dáng Julie đâu. Và những câu hỏi lẫn miêu tả của anh cho người qua đường đều nhận được là những cái lắc đầu.

Đầu tháng Mười anh trở về thành phố, anh cố gắng hết sức cư xử với Anne như chưa có gì xảy ra giữa họ, nhưng từ giây phút cô nhìn anh, có lẽ cô đã biết rằng điều gì đó đã thay đổi. Và dẫu rằng cô không hỏi anh bất kì câu hỏi nào, cô trở nên im lặng hơn, im lặng như cái cách mà những tuần lễ đều đặn trôi qua giữa họ. Và nỗi sợ hiện hữu trong đôi mắt cô làm anh bối rối hơn trước khi nó ngày một trở nên rõ ràng.

Anh vẫn lái xe đến vùng quê mỗi chiều chủ nhật lên thăm ngọn đồi. Những cánh rừng giờ đây đã chìm trong một sắc vàng héo úa, và bầu trời còn trong xanh hơn cả bầu trời tháng Chín. Anh ngồi đấy hàng giờ, nhìn vào nơi cô biến mất. Ngày hôm trước em thấy một con thỏ, hôm qua là một con nai, và hôm nay là anh.

Và rồi, trong một đêm mưa giữa tháng Mười Một, anh tìm thấy một chiếc va li, nó là của Anne, anh tìm thấy nó cũng chỉ bởi tình cờ. Vợ anh đã đi vào thị trấn để chơi Bingo, anh chỉ còn ở nhà một mình. Sau khi dành hai tiếng đồng hồ liền mệt mỏi để xem chương trình tivi, anh chợt nhớ ra bộ đồ chơi xếp hình anh còn giữ từ mùa đông năm trước.

Tuyệt vọng vì tìm kiếm một thứ gì, một điều gì đó để cố gạt đi hình ảnh Julie ra khỏi tâm trí, anh trèo lên gác xép để lấy nó. Chiếc cặp rơi xuống từ một ngăn kệ khi anh đang cố gắng lục lọi giữa đống những chiếc hộp được cột chồng bên cạnh. Nắp hộp bung lên khi nó chạm tới sàn. Anh rướn người cố gắng nhặt lên. Đó là chiếc va li mà cô đã mang theo khi họ dời đến căn hộ nhỏ sau đám cưới. Và anh nhớ cô đã luôn khóa nó và cười bảo với anh rằng có những thứ người vợ phải giữ bí mật ngay cả với chồng mình. Ổ khóa đã rỉ sét theo thời gian, và cú rơi làm nó bung ra.

Anh đưa tay định đóng lại, nhưng anh dừng lại khi nhìn thấy một mép nhô ra của một chiếc váy trắng. Chất liệu thoáng chút quen thuộc với anh. Anh đã nhìn thấy chất liệu này, không lâu về trước, chất liệu làm anh liên tưởng đến kẹo bông gòn, bọt biển và tuyết.

Anh mở cặp ra và cầm chiếc váy bằng những ngón tay run rẩy. Anh cầm lên và để nó lật ra, chiếc váy treo ở đấy, tựa như tuyết trắng đang ngập tràn khắp căn phòng. Anh nhìn ngắm hồi lâu, cổ họng anh nghẹn lại. Rồi anh nhẹ nhàng gấp nó, đặt lại vào va li và đóng nắp, rồi để lại một góc trên gác xép. Ngày hôm trước em thấy một con thỏ, hôm qua là một con nai, và hôm nay là anh.

Mưa vẫn đang nhảy múa trên mái nhà. Sự ngột ngạt nơi cổ họng anh càng dữ dội tưởng chừng như phút chốc anh sắp bật khóc. Anh chậm rãi rời căn gác và bước lại trở xuống, đi qua cầu thang xoắn ốc trở về phòng khách. Chiếc đồng hồ bên lò sưởi chỉ mười giờ mười bốn phút, chỉ vài phút nữa là xe buýt sẽ chở cô trở lại góc đường, và cô sẽ đi theo con đường, rồi đứng trước cửa nhà. Anne sẽ, … Julie sẽ. Hoặc là Julianne?

Đó có phải là tên thật của cô? Có thể lắm chứ. Người ta thường giữ lại một phần tên thật của mình khi đặt biệt danh; và hoàn toàn thay đổi họ để cô nghĩ rằng mọi thứ đã an toàn và cô được tự do. Cô ấy chắn chắn phải làm nhiều thứ nữa ngoài việc thay tên đổi họ để che dấu thân phận khỏi cảnh sát thời gian. Đó là lý do vì sao cô sợ chụp ảnh! Và cô đã sợ sệt thế nào vào cái ngày hôm ấy, ngày cô bước vào văn phòng anh, rụt rè nộp hồ sơ xin việc. Một mình cô đơn độc giữa một thế hệ khác, không biết rằng giả thuyết của bố cô liệu có đúng hay không, không biết rằng người đàn ông yêu cô khi anh ấy hơn bốn mươi liệu có yêu cô như vậy khi anh ấy ở tuổi đôi mươi. Cô đã trở lại, đúng như những gì cô đã hứa.

Hai mươi năm, anh chợt nghĩ. Trong khi cô ấy biết chắc chắn rằng một ngày nào đó tôi sẽ leo lên ngọn đồi vào tháng Chín, gặp cô đứng ở đấy, trẻ trung và duyên dáng, dưới ánh hoàng hôn và lại yêu cô một lần nữa. Cô đã biết điều đó bởi đó là một phần quá khứ của cô cũng chính là một phần tương lai của tôi. Nhưng tại sao cô ấy không kể cho tôi? Tại sao đến giờ vẫn không nói cho tôi biết?

Bỗng nhiên anh hiểu ra.

Anh cảm thấy khó thở, anh bước ra hành lang, mặc áo mưa và bước ra khỏi nhà. Mưa tạt vào mặt anh, chảy giọt xuống má anh. Vài giọt là nước mưa, xen lẫn là những giọt nước mắt. Làm sao một người với vẻ đẹp vĩnh hằng như Anne - như Julie, lại sợ bản thân bị già đi. Cô có biết rằng trong mắt anh cô không già đi, không già đi một ngày nào kể từ lúc anh nhìn cô từ sau bàn làm việc, thấy cô đứng đó trong văn phòng bé nhỏ và đem lòng yêu cô. Cô có biết cũng chính vì vậy mà cô gái trên ngọn đồi trông như một người xa lạ đối với anh?

Anh bước xuống đường và đi về phía góc đường. Chiếc xe buýt chạy đến và dừng lại khi anh gần bước tới nơi. Cô gái với chiếc áo đi mưa màu trắng bước ra. Cổ họng anh nghẹn lại, giờ đây nó như lưỡi dao sắc đang cứa vào anh, làm anh hoàn toàn không thở được. Mái tóc ngả màu hoa bồ công anh giờ đây đã sẫm màu hơn và vẻ duyên dáng đáng yêu của một cô gái trẻ đã không còn nữa; nhưng vẻ nhẹ nhàng kiều diễm vẫn còn đó trên gương mặt cô. Đôi chân dài mảnh khảnh, thon thả và cân đối dưới ánh đèn đường nhợt nhạt của tháng Mười Một như chưa từng biết đến sắc vàng rực rỡ của mặt trời tháng Chín.

Cô bước lại gần, anh nhìn thấy nơi đôi mắt cô một nỗi sợ quen thuộc - nỗi sợ hãi mà giờ đây sắp biến tan vì anh đã hiểu được lý do. Anh lững thững, đôi mắt như nhòe đi, vô thức bước tới cô. Khi anh đến gần và đôi mắt đã trong trở lại, anh vươn đôi tay, lướt qua năm tháng, chạm lấy bờ má ướt đẫm mưa. Cô biết mọi thứ giờ đây đã ổn, và rồi nỗi sợ tan biến mãi mãi và họ tay trong tay bước đi dưới mưa.